Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành.
Hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật BVMT
Báo cáo của đoàn giám sát chỉ ra, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật BVMT, trong đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành hơn 30 văn bản, qua đó đã cơ bản thể chế và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu, quán triệt nguyên tắc môi trường là một trong ba trụ cột "Kinh tế - Xã hội - Môi trường" để phát triển bền vững, chuyển mạnh sang cơ chế quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội.
Công tác BVMT đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu trong ASEAN.
Có 3/5 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025, gồm: tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỉ lệ che phủ rừng.
Công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, tỉ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tăng dần qua các năm, đến hết năm 2024 đạt 97,26% ở đô thị, 80,5% ở nông thôn, giảm hình thức chôn lấp.

Tỉ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tăng dần qua các năm (Ảnh: Hữu Thắng).
Việc tái chế, tái sử dụng, tận dụng giá trị tài nguyên từ chất thải được tăng cường thông qua các hình thức như đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng, tận dụng nhiệt dư từ đốt rác, sản xuất xi măng để phát điện; đã giảm mạnh lượng tồn đọng tro, xỉ, thạch cao phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện, phân bón, hóa chất.
Các địa phương đã và đang từng bước xây dựng hạ tầng xử lý chất thải với công nghệ tái chế, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng thay cho chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt; áp dụng công nghệ mới, tiên tiến như đốt có thu hồi năng lượng và phát điện... để xử lý chất thải rắn sinh hoạt sau phân loại, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên của chất thải, góp phần phát triển nền kinh tế tuần hoàn; thí điểm tính giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý dựa trên khối lượng, thể tích.
Báo cáo của đoàn giám sát cũng chỉ ra một số bất cập như hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường, nhất là trong thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nước thải còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu (hiện nay chỉ có khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom, xử lý;
Tỉ lệ chôn lấp trực tiếp tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỉ lệ cao, nhiều bãi chôn lấp gây ô nhiễm môi trường chậm được xử lý). Cả nước mới có 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu về BVMT.
Việc ban hành, triển khai các chính sách mới về phân loại, thu gom, vận chuyển, tái chế và xử lý chất thải rắn sinh hoạt chưa đúng lộ trình quy định, chưa hiệu quả do thiếu hạ tầng phân loại, thu gom, xử lý đồng bộ...
Phát triển mạnh ngành công nghiệp tái chế
Về các nhiệm vụ và giải pháp đột phá, báo cáo nêu rõ, tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.
Theo đó, thực hiện các biện pháp thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững, giảm phát sinh chất thải; thực hiện nghiêm quy định thu gom, phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại hộ gia đình, cá nhân phù hợp với điều kiện, hạ tầng kỹ thuật của từng địa phương; đẩy mạnh thu hồi các loại chất thải có khả năng tái chế.
Áp dụng công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt tiên tiến, thân thiện môi trường, ưu tiên tái chế, xử lý chất thải kết hợp thu hồi năng lượng thay cho chôn lấp.
Tập trung cải tạo, nâng cấp và xử lý ô nhiễm môi trường tại các bãi chôn lấp rác thải không hợp vệ sinh, khu vực bị ô nhiễm do rác thải gây ra.

Quốc hội nghe Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường sáng 28/10 (Ảnh: Media Quốc hội).
Phấn đấu đến năm 2030, tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị (phường, đặc khu) được thu gom, xử lý đạt 95%, tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn (xã) được thu gom, xử lý đạt 85%; tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp so với lượng chất thải được thu gom giảm dưới 50%.
Quy hoạch địa điểm lưu giữ, xử lý, chôn cất tập trung chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Quản lý chặt chẽ, tăng cường tái chế, tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp, đặc biệt là chất thải nguy hại, chất thải rắn công nghiệp phải kiểm soát.
Thực hiện nghiêm quy định trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong thu hồi, tái chế sản phẩm, bao bì thải bỏ; xây dựng, nhân rộng mô hình đặt cọc hoàn trả đối với sản phẩm, bao bì thải bỏ. Nghiên cứu, bổ sung đối tượng chịu thuế đối với một số loại thực phẩm, bao bì, đồ tiêu dùng trong sinh hoạt, chất thải khó tái chế.
Phát triển mạnh ngành công nghiệp tái chế, khuyến khích sử dụng, tiêu thụ sản phẩm từ quá trình xử lý chất thải rắn.
Thúc đẩy các mô hình hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên minh tái chế, mô hình liên kết vùng, liên kết đô thị với nông thôn và các mô hình khác nhằm phát triển kinh tế tuần hoàn.
Link nội dung: https://doanhnhanngaynay.com/phan-dau-den-2030-ti-le-chat-thai-ran-sinh-hoat-do-thi-duoc-thu-gom-xu-ly-dat-95-a255293.html