Luật Thuế thu nhập cá nhân sửa đổi: Giảm gánh nặng đóng thuế, vẫn còn băn khoăn

Luật Thuế thu nhập cá nhân sửa đổi mang lại nhiều lợi ích khi giảm gánh nặng cho người lao động và hộ kinh doanh. Tuy nhiên, những quy định liên quan áp thuế với vàng miếng và mức thuế suất cao nhất 35% vẫn gây tranh luận.

Bài 1: Thuế suất 35% có hợp lý?

Theo tính toán của Bộ Tài chính, từ năm 2026, mức giảm trừ gia cảnh điều chỉnh tăng đi kèm bậc thuế luỹ tiến được điều chỉnh giúp hơn 2 triệu người làm công ăn lương không còn phải nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Tuy nhiên, chuyên gia đề xuất, cơ quan chức năng nên tính toán lại mức thu nhập ở ngưỡng chịu thuế suất 35% theo hướng áp dụng với người có thu nhập hàng trăm triệu đồng trở lên.

Doanh nghiệp, người lao động hưởng lợi

Luật thuế TNCN sửa đổi vừa được thông qua giúp người dân, doanh nghiệp phấn khởi. Theo đó, mức đóng thuế thu nhập cá nhân và giảm trừ gia cảnh được điều chỉnh tăng khoảng 40%, lên 15,5 triệu đồng/tháng (hiện là 11 triệu đồng/người/tháng) cho bản thân người nộp thuế và 6,2 triệu đồng/tháng người phụ thuộc (hiện là 4,4 triệu đồng/người/tháng).

Chị Nguyễn Nhung (Hà Nội) cho biết, cả 2 vợ chồng đều làm công ăn lương. Vợ chồng chị Nhung có 3 con nhỏ. Do chồng làm ngân hàng và bản thân thu nhập của chị cũng ở mức tương đối cao so với mặt bằng chung nên sau khi được tính giảm trừ gia cảnh, hàng tháng hai vợ chồng vẫn phải đóng thuế TNCN dù không nhiều. Trong khi đó các chi phí từ tiền học phí, tiền bỉm, sữa, đến thực phẩm liên tục tăng trong 2 năm trở lại đây.

“Khu vực nhà tôi trường công quá tải, các gia đình phải bốc thăm để giành suất học trường công. Gia đình tôi đăng ký tham gia bốc thăm nhưng không trúng nên con phải chuyển sang học trường tư với mức học phí khoảng 6 triệu đồng/tháng. Với việc mức giảm trừ gia cảnh mới được áp dụng, vợ chồng tôi sẽ không phải nộp thuế TNCN từ năm 2026. Khoản tiền này giúp chúng tôi chi tiêu mỗi tháng và đỡ gánh nặng học phí trường tư”, chị Nhung chia sẻ.

Việc tăng mức giảm trừ gia cảnh cũng giúp các doanh nghiệp được hưởng lợi gián tiếp. Theo ghi nhận của PV, hiện nay, hàng tháng doanh nghiệp sẽ tạm ứng số tiền thuế TNCN và khấu trừ trước khi trả lương cho người lao động.

Chị Lê Hạnh - phòng nhân sự một doanh nghiệp ngành tài chính tại Hà Nội cho biết, mỗi năm sẽ có chỉ tiêu tăng 5 - 10% lương cho nhân viên. Tuy nhiên, sau khi tăng lương, người lao động sẽ bị nhảy bậc thuế, lên mức thuế suất cao hơn do thu nhập được điều chỉnh tăng. Việc bị nhảy bậc đóng thuế khi vừa được tăng lương làm giảm động lực của người lao động do tiền đóng thuế cũng gia tăng, thậm chí cao hơn phần lương tăng thêm được nhận.

“Có nhân viên phản ánh, lương tăng 10%, đã khiến nhảy bậc thuế từ 5% lên bậc 10%. Một phần lương nhận được bị chuyển sang nộp thuế khiến nhân viên mất động lực phấn đấu, không hào hứng với việc được tăng lương. Việc mức giảm trừ gia cảnh tăng lên và giãn bậc thuế sẽ giúp người lao động yên tâm cống hiến, không khấp khởi lo nhảy bậc thuế”, chị Hạnh cho biết.

Theo tính toán của Bộ Tài chính, mức giảm trừ mới giúp khoảng 2,18 triệu người (gần 50% số người bậc 1 chuyển sang diện không phải nộp thuế). Số người còn lại phải nộp thuế chỉ còn khoảng 2,21 triệu người. Dự kiến ngân sách nhà nước giảm khoảng 21.000 tỷ đồng/năm so với mức thu và số lượng người nộp thuế theo quy định hiện hành.

Cần áp thuế theo khu vực, đặc thù dân cư

TS. Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học (ĐH Kinh tế Quốc dân) cho rằng, thuế TNCN cần đặt trong mối tương quan với các sắc thuế liên quan đến thu nhập khác như thuế giao dịch bất động sản, chứng khoán… Thuế TNCN có nhiều mục tiêu: Tạo nguồn thu cho ngân sách, phân phối lại thu nhập để giảm bất bình đẳng và đảm bảo mức sống tối thiểu phù hợp với thực tiễn.

Có khoảng 2 triệu người làm công ăn lương sẽ không phải chịu thuế TNCN từ việc tăng mức giảm trừ gia cảnh và tăng ngưỡng tính thuế thu nhập cá nhân. Ảnh: Như Ý

Theo ông Thế Anh, thu nhập từ tiền lương, tiền công, dù đã được sửa đổi, thuế TNCN vẫn tồn tại nhiều bất cập. Mức giảm trừ gia cảnh chưa hợp lý. Ở nông thôn và các tỉnh lẻ, quy định mới tương đối phù hợp; nhưng tại các đô thị lớn như TP.HCM và Hà Nội, mức này vẫn thấp so với chi phí sinh hoạt, đặc biệt là chi phí nhà ở vốn có thể chiếm tới khoảng 50% thu nhập của người lao động. TS Thế Anh đề xuất tính mức giảm trừ gia cảnh theo địa bàn cư trú và nơi làm việc, ví dụ TP Hà Nội, TP.HCM một mức; các địa phương khác một mức.

“Mức giảm trừ gia cảnh áp dụng từ 2013 đến nay trong khi chi phí sinh hoạt đã tăng mạnh. Năm 2012, mức đề xuất là 9 triệu đồng, đến 2020 nâng lên 11 triệu đồng, nhưng thực tế giá sinh hoạt và nhà ở đã tăng nhanh hơn nhiều. Nếu chỉ tính theo tốc độ tăng GDP bình quân đầu người từ 2012 đến nay, TS Thế Anh ước tính mức giảm trừ gia cảnh cần tăng lên khoảng 25 triệu đồng. Vì vậy, mức giảm trừ theo luật mới vẫn chưa phù hợp”, TS Thế Anh phân tích.

Luật Thuế TNCN mới, biểu thuế luỹ tiến gồm 5 bậc. Cụ thể, sau khi giảm trừ gia cảnh bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc, bậc 1 với thu nhập từ 10 triệu đồng mức thuế 5%; bậc 2 với mức thuế 10% cho thu nhập từ 10-30 triệu đồng; bậc 3 với mức thuế 20% cho thu nhập từ 30-60 triệu đồng; bậc 4 với mức thuế 30% cho thu nhập 60-100 triệu đồng và bậc 5 mức thuế suất cao nhất cho thu nhập trên 100 triệu đồng.

Một vấn đề khác, mức giảm trừ sau lần sửa đổi này được áp dụng cho nhiều năm, nhưng lại không có cơ chế điều chỉnh hằng năm, trong khi chi phí sinh hoạt vẫn tăng liên tục. Mức hiện hành chưa bù đắp được phần đã mất trong quá khứ, lại càng khó bắt kịp trong tương lai, khiến người lao động có thu nhập từ lương tiếp tục chịu thiệt thòi. Vì vậy, cần sửa theo hướng điều chỉnh định kỳ hằng năm.

Thuế suất 35% chỉ nên dành cho giới siêu giàu

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cho rằng, từ năm 2007 đến nay, thu nhập bình quân của người Việt Nam đã tăng 5,8 lần và lạm phát tăng 200% nhưng các ngưỡng chịu thuế ở các bậc trong biểu thuế lũy tiến chỉ được gia tăng rất thấp.

“Nếu tăng tương ứng gấp 3 lần theo lạm phát thời gian qua, ngưỡng chịu thuế cao nhất này cần điều chỉnh lên hơn 240 triệu đồng/tháng hoặc tối thiểu gấp 2 lần, từ trên 160 triệu đồng mới áp dụng thuế suất 35%. Điều này mới phù hợp với quy định hiện nay, vốn đã được cho có nhiều bất cập”, ông Đức nói.

Theo ông Đức, có thể hình dung triết lý áp dụng 5 mức thuế suất: mức 5% cho người tạm đủ ăn, mức 10% cho người có chút dư dả, mức 25% cho người khá giả, mức 30% cho người giàu và mức 35% thì áp dụng cho người rất giàu hay siêu giàu.

Do đó, mức đề xuất 35% nhiều điểm bất hợp lý, chỉ cần giữ nguyên như khi ban hành luật này vào 16 năm trước, mức khởi điểm chịu thuế thu nhập 35% theo dự thảo phải gấp vài trăm % trước đây, chứ không phải chỉ cao hơn 25%. Với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và cuộc sống (từ nhu cầu thiết yếu cho đến bình thường), mức khởi điểm còn phải cao hơn so với tương đương trước kia.

“Việc áp đặt thuế suất như vậy chưa hợp lý. Thu nhập 100 triệu đồng/tháng chỉ là hơi giàu so với trong nước cũng như thế giới. Mức thu nhập của người siêu giàu thì phải vài trăm triệu đồng/tháng trở lên”, ông Đức nói.

TS Phạm Thế Anh cho rằng, nếu muốn giảm bất bình đẳng, cần phát triển các sắc thuế đánh vào tài sản và tình trạng găm giữ tài sản, thay vì dồn gánh nặng lên người làm công ăn lương. Đánh thuế lương quá cao ở mức 30 đến 35% có thể vô tình khuyến khích chuyển hướng sang đầu cơ tài sản, làm suy yếu động lực lao động sản xuất. Trong khi đó, hoạt động găm giữ, đầu cơ bất động sản lại không bị đánh thuế cao, thậm chí giao dịch chỉ bị thu khoảng 2% trên tổng giá trị.

Cùng quan điểm, TS Phạm Thế Anh cho rằng, nếu muốn giảm bất bình đẳng, cần phát triển các sắc thuế đánh vào tài sản và tình trạng găm giữ tài sản, thay vì dồn gánh nặng lên người làm công ăn lương. Đánh thuế lương quá cao ở mức 30 đến 35% có thể vô tình khuyến khích chuyển hướng sang đầu cơ tài sản, làm suy yếu động lực lao động sản xuất. Trong khi đó, hoạt động găm giữ, đầu cơ bất động sản lại không bị đánh thuế cao, thậm chí giao dịch chỉ bị thu khoảng 2% trên tổng giá trị.

Theo ông Thế Anh, thực tế, người làm công ăn lương có thu nhập không quá cao, bị đánh thuế cao và khó trốn thuế; còn thu nhập từ giao dịch tài sản thường lớn nhưng lại dễ lách thuế. Lập luận duy trì mức thuế 30 đến 35% vì tương đương các nước trong khu vực cũng chưa thuyết phục. Thuế suất phải đi kèm ngưỡng thu nhập tương ứng.

“So sánh cho thấy, ở Philippines, để chịu thuế suất 35%, thu nhập phải khoảng 300 triệu đồng/tháng (tương đương 3,6 tỷ đồng/năm), trong khi tại Việt Nam, thu nhập trên 1 tỷ đồng/năm đã chịu mức này. Ở Singapore và Thái Lan, mức 35% chỉ áp dụng khi thu nhập khoảng 7 đến 8 tỷ đồng/năm; còn Malaysia có thuế suất tối đa 30%, nhưng ngưỡng áp dụng ở mức khoảng 13 tỷ đồng/năm”, ông Thế Anh dẫn ví dụ.

Link nội dung: https://doanhnhanngaynay.com/luat-thue-thu-nhap-ca-nhan-sua-doi-giam-ganh-nang-dong-thue-van-con-ban-khoan-a256943.html