Nhóm Big 4 cũng ồ ạt tăng lãi suất huy động, chuyện gì đang xảy ra?

Tháng cuối cùng trong năm, lãi suất huy động không chỉ lan rộng ra các ngân hàng thương mại cổ phần mà nhóm ngân hàng quốc doanh cũng nhập cuộc. Chuyên gia đánh giá, lãi suất huy động cao hiện nay chủ yếu phản ánh áp lực thanh khoản ngắn hạn của thị trường, không phải tín hiệu đảo chiều chính sách tiền tệ nhưng vẫn lo ngại rủi ro.

Lãi suất huy động có nơi lên tới hơn 8%/năm

Lần đầu tiên cả 4 ngân hàng quốc doanh cùng tăng lãi suất huy động sau gần một năm giữ nguyên, với mức điều chỉnh 0,5%/năm tại nhiều kỳ hạn. Với đợt điều chỉnh này, lãi suất khoản tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tại các ngân hàng quốc doanh lên ngang với giai đoạn cuối năm 2023, còn lãi suất kỳ hạn ngắn vẫn thấp hơn khoảng 0,5% so với thời điểm này.

Cụ thể, Vietcombank, BIDV và VietinBank áp dụng biểu lãi suất tại quầy giống nhau. Khoản tiền gửi 12 tháng nâng lên mức 5,2%/năm; 6-9 tháng lên 3,5%/năm; còn 1 tháng và 3 tháng lên 2,1-2,4%/năm. Agribank cũng áp mức lãi suất 5,2%/năm cho kỳ hạn 12 tháng, các kỳ hạn ngắn còn lại cao hơn 0,3% so với ba ngân hàng quốc doanh.

Lãi suất huy động tăng mạnh cuối năm (ảnh: N.M).

Với vai trò dẫn dắt thị trường, động thái của nhóm Big 4 không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến người gửi tiền, mà còn có thể tạo hiệu ứng lan tỏa, tác động đến mặt bằng lãi suất chung trong thời gian tới.

Đà tăng lãi suất tiết kiệm lan rộng từ hai tháng trở lại đây, đặc biệt mạnh hơn ở nhóm ngân hàng top dưới. Từ đầu tháng 12, đã có 24 ngân hàng tăng lãi suất huy động. Trong đó, NCB, VPBank, Techcombank đã có hai lần điều chỉnh lãi suất.

Một số đơn vị như PVComBank, NCB có chương trình tặng lãi suất, theo đó ghi nhận mức lãi trên 8%/năm cho khoản tiền gửi 12 tháng.

Chưa đảo chiều lãi suất nhưng vẫn lo ngại rủi ro

Trao đổi với PV Tiền Phong , chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, xu hướng tăng lãi suất huy động sẽ còn tiếp diễn ít nhất cho đến dịp Tết. Nguyên nhân là năm nay tăng trưởng tín dụng có thể lên tới 18-20%, sang năm nhiều khả năng còn cao hơn nếu GDP tăng trưởng hai con số. Thông thường, tăng trưởng tín dụng thường gấp khoảng hai lần tăng trưởng GDP. Khi tín dụng tăng mạnh như vậy, các ngân hàng buộc phải chạy đua huy động vốn, dẫn tới lãi suất tiếp tục chịu áp lực tăng. Sau Tết, khi nền kinh tế bước vào chu kỳ trầm lắng hơn, lãi suất có thể hạ nhiệt dần.

Tuy nhiên, ông Hiếu bày lo ngại, khi tín dụng tăng nóng mà lãi suất cho vay không thể hạ, doanh nghiệp sẽ chịu chi phí vốn cao hơn. Trong bối cảnh đó, nhiều người đi vay có thể đổ tiền vào các tài sản mang tính đầu cơ để tìm kiếm lợi nhuận bù đắp chi phí lãi vay. Điều này làm gia tăng rủi ro không chỉ cho người vay, mà cả cho ngân hàng và toàn bộ hệ thống tài chính.

Ông Nguyễn Minh Tuấn - CEO AFA Capital, đồng sáng lập Cộng đồng Cố vấn Tài chính Việt Nam (VWA) - cho biết, những diễn biến căng thẳng của lãi suất thời gian gần đây đang tạo ra không ít lo ngại trên thị trường. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn và suy diễn quá mức, điều quan trọng đầu tiên là phải tách bạch rõ giữa lãi suất thị trường và lãi suất điều hành.

Theo ông Tuấn, lãi suất thị trường là mức lãi suất hình thành từ các giao dịch thực tế giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Lãi suất này vận hành trên hai phân khúc chính: ngắn hạn và dài hạn. Ngắn hạn là thị trường tiền tệ, bao gồm thị trường dân cư (ngân hàng huy động và cho vay với người dân, doanh nghiệp), thị trường liên ngân hàng và thị trường mở (OMO). Dài hạn là thị trường vốn, nơi giao dịch các công cụ như trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5-30 năm và cổ phiếu.

Trong thực tế, thị trường dân cư đóng vai trò quyết định. Khi ngân hàng cho vay ra nhiều hơn khả năng huy động, họ buộc phải tìm nguồn vốn bổ sung trên thị trường liên ngân hàng. Nếu nhiều ngân hàng cùng thiếu thanh khoản, lãi suất liên ngân hàng sẽ bị đẩy lên cao. Đây là hiện tượng mang tính thị trường, phản ánh cung - cầu vốn ngắn hạn.

Khi lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước sẽ can thiệp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở hoặc hoán đổi ngoại tệ. Cần nhấn mạnh rằng, các biện pháp này chỉ nhằm bơm thanh khoản ngắn hạn, thường với kỳ hạn 7-14 ngày, chứ không phải là nới lỏng tiền tệ theo nghĩa bơm tiền vào nền kinh tế.

"Áp lực hiện nay xuất phát từ thực tế tín dụng tăng nhanh hơn huy động . Tổng dư nợ tín dụng đã vượt 18 triệu tỷ đồng, trong khi tốc độ tăng trưởng huy động không theo kịp. Điều này khiến tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR) của nhiều ngân hàng tiến sát ngưỡng an toàn 85%. Khi LDR cao, ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động, vay liên ngân hàng hoặc tìm đến các kênh hỗ trợ thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước. Hệ quả là lãi suất liên ngân hàng có thời điểm lên tới 7%, mức hiếm thấy trong giai đoạn 2023-2024", ông Tuấn nói

Theo ông Tuấn, lãi suất điều hành là câu chuyện khác. Các công cụ như trần lãi suất huy động dưới 6 tháng, lãi suất tái cấp vốn hay tái chiết khấu chỉ được điều chỉnh khi có rủi ro vĩ mô mang tính chu kỳ, đặc biệt là lạm phát. Chỉ số quyết định khả năng đảo chiều chính sách tiền tệ là CPI. Khi lạm phát chưa vượt ngưỡng mục tiêu khoảng 4,5-5%, việc thắt chặt chính sách là khó xảy ra trong ngắn hạn.

"Lãi suất cao hiện nay chủ yếu phản ánh áp lực thanh khoản ngắn hạn của thị trường, không phải tín hiệu đảo chiều chính sách tiền tệ. Chừng nào lạm phát còn được kiểm soát, lãi suất điều hành nhiều khả năng vẫn ổn định, dù lãi suất thị trường có thể tiếp tục neo ở mức cao trong thời gian tới", ông Tuấn cho hay.

Link nội dung: https://doanhnhanngaynay.com/nhom-big-4-cung-o-at-tang-lai-suat-huy-dong-chuyen-gi-dang-xay-ra-a257050.html