"NHÀ BĂNG"

"Lãi suất Việt Nam tăng 0,5-1% thì vẫn rẻ so với giai đoạn trước đây và so với thế giới"

Admin

Theo CEO MB, hiện lãi suất ở Việt Nam đã ở mức rất thấp, nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện tại vay có thể lãi suất chỉ 4,5-5%/năm.

Chia sẻ tại Diễn đàn "Chủ động thích ứng, tạo đà bứt phá" mới đây, ông Phạm Như Ánh, Tổng Giám đốc MB cho rằng trong ngắn hạn những tháng tới, lãi suất có thể sẽ tăng lên.

Theo ông Ánh: "Hiện lãi suất điều hành của Mỹ vẫn 3,75-4%/năm. Nếu một đồng USD chuyển vào Việt Nam, rồi chuyển qua VND, năm sau chuyển qua lại USD thì chúng ta có lãi suất VND trừ đi tỷ giá, tức gửi được 5% trừ đi 3% thì được 2%. Rõ ràng để tiền ở Mỹ lãi suất 4% tốt hơn".

Vì thế, trong ngắn hạn dòng tiền chưa thể đảo chiều, cơ hội để nhà điều hành vừa giữ được tỷ giá và vừa giảm lãi suất là rất khó. Và thực tế trong 2 tháng vừa qua, chúng ta thấy lãi suất bắt đầu nhích lên. Bởi đến tháng 10 thì tỷ giá đã tăng 3,5%, hết dư địa và nếu so với cùng kỳ năm ngoái là đã tăng 6%. Như vậy, lãi suất bắt buộc phải nhích lên.

"Hiện lãi suất ở Việt Nam đã ở mức rất thấp, nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện tại vay có thể lãi suất chỉ 4,5-5%/năm. Đang có một nghịch lý là ngân hàng đi vay USD ở nước ngoài lãi suất 6%, rồi về cho doanh nghiệp trong nước vay lãi suất 4%, vì trong nước không huy động được USD".

Tổng Giám đốc MB cũng cho biết, trong cơ cấu tăng trưởng tín dụng của năm nay, có sự đóng góp rất lớn của FDI, họ thay vì vay ở nước sở tại 6-7% thì sang Việt Nam vay 4-5%.

Với những phân tích đó, ông Ánh cho rằng trong ngắn hạn, lãi suất tăng lên một chút, nhưng không nhiều. Kể cả tăng 0,5-1% thì vẫn rẻ, so với giai đoạn trước đây, và so với thế giới. Vì lãi suất của chúng ta hiện nay thấp hơn cả Trung Quốc và Mỹ. Đầu năm sau, nếu điều kiện thuận lợi thì lãi suất có thể giảm một chút. Nếu FED giảm lãi suất xuống dưới 3% và các chính sách ổn định thì dòng tiền nước ngoài sẽ trở lại Việt Nam.

Một số thống kê gần đây cho thấy, lãi suất huy động đã tăng ở khá nhiều ngân hàng trong tháng 10, bao gồm cả những ngân hàng lớn.

Theo Chứng khoán MBS, trong số 18 ngân hàng được theo dõi, có 6 ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động trong tháng 10. Trong đó, LPBank hiện là ngân hàng có lãi suất huy động 12 tháng cao nhất ở mức 6,1%/năm. Việc mặt bằng lãi suất tiền gửi rục rịch tăng vào đầu quý 4 cũng phản ánh nhu cầu huy động vốn gia tăng nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng có xu hướng tăng mạnh về cuối năm theo chu kỳ mùa vụ.

Theo NHNN, tính đến ngày 30/10, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã tăng khoảng 15% so với cuối năm 2024, và dự kiến sẽ tiếp tục tăng mạnh lên mức 19% cho đến 20% vào cuối năm nay. Do vậy, đến cuối T10, trung bình lãi suất kỳ hạn 3 tháng của nhóm NHTM tư nhân ở mức 4,1%. Trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của nhóm NHTM tư nhân tăng ở mức 5,34%, trong khi lãi suất của nhóm các NHTM quốc doanh giữ ổn định ở mức 4,7%. Theo đó, trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của các NHTM tăng 15 điểm cơ bản so với đầu năm lên mức 5% vào cuối T10.

Chứng khoán KB cũng có phân tích tương tự. Cụ thể, tín dụng toàn hệ thống tính đến cuối tháng 9/2025 đã tăng trưởng 13,4% – mức tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ của nhiều năm trở lại đây. Trong khi đó, tăng trưởng huy động đạt 9,7%, tạo ra chênh lệch đáng kể so với mức tăng mạnh của tín dụng. Với định hướng nới lỏng chính sách tiền tệ xuyên suốt trong năm nay, mặt bằng lãi suất nhìn chung vẫn tương đối ổn định. Tuy nhiên, một số ngân hàng đã ghi nhận mức tăng trưởng tín dụng trên 20% trong 9 tháng đầu năm, điều này có thể tạo áp lực lên lãi suất huy động.

Chứng khoán Vietcombank cũng dự báo dư địa giảm lãi suất huy động sẽ bị hạn chế trong thời gian tới; thay vào đó có xu hướng tăng nhẹ trở lạ do ba yếu tố: Thứ nhất, tín dụng nhiều khả năng bứt tốc vào cuối năm khi NHNN nới chỉ tiêu, buộc các ngân hàng – đặc biệt nhóm NHTM cổ phần – phải đẩy mạnh huy động vốn, làm gia tăng rủi ro thiếu hụt thanh khoản cục bộ; Thứ hai, áp lực tỷ giá USD/VND vẫn hiện hữu. Và thứ ba là thị trường bất động sản và tài sản tài chính tăng nóng làm gia tăng nhu cầutín dụng rủi ro, tạo động lực gián tiếp cho việc điều chỉnh lãi suất huy động lên mức hợp lý để kiểm soát dòng vốn.