Ảnh minh họa
Khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai 2024 quy định cụ thể, người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có đủ 5 điều kiện sau:
Một là , có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp thừa kế quyền sử dụng đất, chuyển đổi đất nông nghiệp khi dồn điền, đổi thửa, tặng cho quyền sử dụng đất cho Nhà nước, cộng đồng dân cư và trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 124 và điểm a khoản 4 Điều 127 của Luật Đất đai 2024.
Hai là , trường hợp đất không có tranh chấp hoặc tranh chấp đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản án, quyết định của tòa án, quyết định hoặc phán quyết của trọng tài đã có hiệu lực pháp luật.
Ba là , quyền sử dụng đất không bị kê biên, áp dụng biện pháp khác nhằm đảm bảo thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
Bốn là, trong thời hạn sử dụng đất.
Năm là , quyền sử dụng đất không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.
Còn căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 và điểm c khoản 3 Điều 17 Nghị định 123/2024/NĐ-CP, cá nhân có hành vi chuyển nhượng hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không đủ một trong các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai 2024 có thể bị phạt tiền từ 30 đến 50 triệu đồng, với trường hợp tổ chức vi phạm thì bị phạt tiền bằng 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân vi phạm.
Như vậy, các cá nhân sẽ bị phạt tiền từ 30-50 triệu đồng, tổ chức sẽ bị phạt tiền từ 60-100 triệu đồng nếu có hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bán đất) đang tranh chấp.