Sáng 11/12, với đa số phiếu tán thành, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản.
Bổ sung quy định việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản
Một trong những nội dung quan trọng trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản là những quy định để gỡ vướng thực tế thiếu vật liệu xây dựng.
Luật bổ sung quy định việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhóm III làm vật liệu xây dựng cho các tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và 2 Điều 53 của Luật này khai thác để cung cấp vật liệu cho các công trình, dự án sau đây không phải căn cứ vào phương án quản lý về địa chất, khoáng sản.
Cụ thể là dự án đầu tư công theo quy định của pháp luật về đầu tư công; dự án đầu tư thực hiện theo phương thức đối tác công tư (PPP) theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng (Ảnh: Media Quốc hội).
Các công trình, dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia; công trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư của chính quyền địa phương hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đầu tư, đầu tư công, đầu tư theo phương thức đối tác công tư và được Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép không phải căn cứ vào phương án quản lý về địa chất, khoáng sản.
Cùng với đó là dự án, công trình xây dựng khẩn cấp, cấp bách theo quy định của pháp luật về xây dựng; dự án, công trình phòng, chống thiên tai theo quy định của pháp luật về phòng, chống thiên tai.
Bên cạnh đó, theo luật, trường hợp khai thác khoáng sản nhóm III làm vật liệu xây dựng phục vụ các công trình, dự án quy định kể trên, giấy phép khai thác khoáng sản được cấp trực tiếp cho tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật...
Việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhóm III làm vật liệu xây dựng để cung cấp vật liệu cho các công trình, dự án kể trên được thực hiện theo hướng: Không phải thực hiện thủ tục trình cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, đầu tư công, đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Không phải thực hiện thủ tục thẩm định và phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường, đăng ký môi trường. Hồ sơ dự án đầu tư khai thác khoáng sản phải có nội dung về kỹ thuật an toàn, bảo vệ môi trường, ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản.
Theo Luật, trường hợp thời hạn khai thác khoáng sản đã hết hoặc đã được gia hạn nhưng giấy phép đã hết hiệu lực mà khu vực được phép khai thác còn trữ lượng, việc cấp lại giấy phép khai thác khoáng sản được thực hiện theo đề nghị của tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy phép khai thác khoáng sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 87 của Luật này.
Việc gia hạn (nếu còn trữ lượng theo giấy phép) hoặc điều chỉnh nâng công suất khai thác (không tăng trữ lượng đã cấp phép) đối với giấy phép khai thác khoáng sản nhóm III làm vật liệu xây dựng còn hiệu lực để cung cấp vật liệu cho các công trình, dự án quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1a Điều 55 của Luật này không phải thực hiện thủ tục trình cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền quyết định hoặc chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư; thẩm định và phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường, đăng ký môi trường.
Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép khai thác khoáng sản có trách nhiệm lập dự án điều chỉnh nâng công suất và phải bảo đảm các yêu cầu về kỹ thuật an toàn, bảo vệ môi trường, ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản.
Quy định trường hợp không phải thực hiện đánh giá tác động môi trường
Về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, một trong những điểm quan trọng là Luật đã sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường, quy định trường hợp không phải thực hiện đánh giá tác động môi trường.

Quang cảnh phiên họp sáng 11/12 (Ảnh: Media Quốc hội).
Cụ thể là dự án đầu tư công khẩn cấp theo quy định của pháp luật về đầu tư công; Dự án đầu tư không phải thực hiện đánh giá tác động môi trường theo quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội.
Về thực hiện đánh giá tác động môi trường, việc đánh giá do chủ dự án đầu tư tổ chức thực hiện.
Đánh giá tác động môi trường được thực hiện đồng thời với quá trình lập báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc tài liệu tương đương với báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư, dự án thành phần hoặc phân kỳ đầu tư của dự án.
Kết quả đánh giá tác động môi trường được thể hiện bằng báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Mỗi dự án đầu tư lập một báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với dự án thành phần hoặc phân kỳ đầu tư của dự án được cơ quan có thẩm quyền quyết định.